BỆNH
NHƯỢC CƠ
1. Đại cương.
Nhược
cơ là một bệnh thần kinh-cơ tự miễn với đặc tính yếu cơ vân.
Nữ
gặp nhiều hơn nam, tỷ lệ thường 3/2, gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp từ 15
đến 20 tuổi. Số bệnh nhân có u tuyến ức phổ biến ở tuổi 40-50. Ở tuổi 60-70 thì
bệnh nhược cơ chủ yếu là nam giới.
Ở
Ðông Á thấy bệnh khá cao ở trẻ dưới 3 tuổi, còn ở vùng khác rất ít khi trẻ em
dưới 10 tuổi bị bệnh.
Tỷ
lệ mới mắc hàng năm là khoảng 2-6/100.000 dân, còn tỷ lệ hiện mắc là
20-50/100.000 dân.
2. Sinh lý bệnh.
Chất
trung gian hóa học dẫn truyền thần kinh tại sinap thần kinh-cơ là acetylcholine
(Ach) được tổng hợp ở chỗ tận cùng của sợi thần kinh và được tích lũy trong các
túi thành những lượng tử. Mỗi lượng tử tương ứng với khoảng 10.000 nguyên tử
ACh. Khi không co cơ, lượng tử này giải phóng một lượng nhỏ một cách tự phát
Ach, tạo ra điện thế cực tiểu ở màng tận. Ðiện thế này không đủ để lan tỏa dọc
theo màng sợi cơ gọi là điện thế lúc nghỉ ngơi. Khi có một xung động thần kinh
tới chỗ tận cùng của sợi thần kinh, lượng Ach từ 150-200 túi sẽ được giải phóng
ra đi qua khe sinap để gắn vào các thụ thể Ach được mở ra cho phép các ion
dương đổ vào (chủ yếu Na+), gây nên sự khử cực tạo ra một điện thế hoạt động
lan tỏa suốt chiều dài sợi cơ sinh co cơ. Quá trình này xảy ra nhanh do sự phân
tán Ach khỏi các thụ thể để rồi bị phân hủy bởi các men acetyl cholinesterase
từ các đáy nếp gấp màng sau sinap vận chuyển lên.
Trong
bệnh nhược cơ, thiếu sót cơ bản là giảm số lượng các thụ thể Ach ở màng sau
sinap do kháng thể kháng thụ thể Ach (gặp khoảng 90%). Các kháng thể này làm
giảm các thụ thể qua 3 cơ chế sau:
É Do sự nối chéo các thụ
thể.
É Vị trí gắn Ach bị nghẽn
bởi các kháng thể.
É Màng cơ sau sinap bị tổn
thương do kháng thể kết hợp với bổ thể.
Nồng
độ kháng thể kháng thụ thể Ach không tỷ lệ với độ trầm trọng của bệnh. Cho tới
nay vấn đề tự miễn đáp ứng đầu tiên như thế nào và duy trì ra sao thì chưa được
rõ. Sự sản xuất tự kháng thể kháng Ach là do các lympho T- trợ giúp đặc hiệu,
là do các lympho T- điều hòa có thể tách ra từ tuyến ức hay máu của bệnh nhân.
Người
ta thấy tuyến ức bất thường ở 75% trường hợp, trong số này 65%quá sản còn 10%
có u tuyến ức. Qua nghiên cứu thấy các tế bào thượng bì (tế bào dạng cơ, myoid)
trong tuyến ức mang các thụ thể Ach trên bề mặt có thể được sử dụng như các
kháng nguyên và phát động phản ứng tự miễn. Tuyến ức còn chứa các lympho B đặc
hiệu đối với thụ thể Ach và cáctương bào cũng tham gia vào sự tạo kháng thể
kháng thụ thể Ach. Rõ ràng có mối liên hệ mật thiết giữa bệnh nhược cơ và bất thường
của tuyến ức, điều này đòi hỏi xét nghiệm cận lâm sàng để có thể can thiệp phẫu
thuật.
Tóm
lại, các biến đổi ở màng sau sinap do kháng thể kháng Ach gây giãn rộng khe
sinap, giảm số lượng nếp gấp của màng sau sinap và thay đổi độdài màng sau
sinap, từ đó làm giảm số lượng thụ thể và hậu quả cuối cùng là giảm sự dẫn
truyền thần kinh - cơ vân.
Có thể có sự phối hợp hay đồng phát bệnh tự miễn như viêm đa khớp dạng thấp, lupus ban đỏ hệ thống, sarcoidose, hội chứng Gougerot - Sjögren, tán huyết tự miễn, viêm đa cơ, viêm đại trực tràng chảy máu, bệnh Kaposi, xuất huyết giảm tiểu cầu, pemphigus, bệnh tuyến giáp thường là cường giáp hơn là suy giáp.
Có thể có sự phối hợp hay đồng phát bệnh tự miễn như viêm đa khớp dạng thấp, lupus ban đỏ hệ thống, sarcoidose, hội chứng Gougerot - Sjögren, tán huyết tự miễn, viêm đa cơ, viêm đại trực tràng chảy máu, bệnh Kaposi, xuất huyết giảm tiểu cầu, pemphigus, bệnh tuyến giáp thường là cường giáp hơn là suy giáp.
Kháng
nguyên HLA-B8 thường gặp trong nhược cơ toàn thể ở phụ nữ không có u tuyến ức,
còn kháng thể HLA-A3 và B7 là ở thể muộn không có u tuyến ức.
3. Triệu chứng lâm
sàng.
Yếu
cơ trong bệnh nhược cơ chủ yếu là các cơ do các dây thần kinh sọ chi phối đó là
cơ vận nhãn, cơ mặt, cơ nuốt và cơ vùng cổ (cơ gấp bị nhiều và nặng hơn cơ
duỗi).
Khởi
đầu thường âm thầm nhưng đôi khi xảy ra sau nhiễm trùng cấp, sau phẫu thuật,
sau nhiễm độc...
Ðặc
tính chung về lâm sàng là các cơ yếu nhanh chóng sau vận động, gắng sức và hồi
phục sau nghỉ ngơi. Các triệu chứng của bệnh nhược cơ thường dễ phát hiện như
sụp mi, lác mắt, mỏi đầu, nói nuốt khó, nhai mỏi...
Khoảng
50-60% bệnh nhân đến khám vì lý do sụp mi và song thị do cơ vận nhãn bị yếu.
Lúc đầu tiên triệu chứng có thể thoáng qua, sau đó lại tái lại không những số
cơ đó mà còn có thể yếu cơ khác.
Teo
cơ trong bệnh lý này khoảng 10%, chủ yếu là bệnh nhân nhược cơ toàn thân nặng,
là do mất phân bố thần kinh (denervation). Thấy rằng yếu cơ vận nhãn và cơ nâng
mi kéo dài trên 12 tháng thì hầu như không tiến triển lan tỏa toàn thân. Có 15%
là thể mắt đơn thuần.
Phân
bố yếu cơ thường là hai bên, ở gốc chi tuy nhiên cũng có thể không đối xứng.
Quyết
định chẩn đoán là test Prostigmine 1-1,5 mg tiêm bắp nếu các triệu chứng giảm
nhanh sau 30 phút hoặc test Tensilon (edrophonium) lúc đầu tiêm 2mg tĩnh mạch,
sau 1 phút không đỡ thì tiêm thêm 4mg và nếu 1-2 phút sau thấy không đỡ lại
tiêm thêm 4mg, có nghĩa tổng liều là 10 mg, thuốc này tác dụng nhanh và chỉ kéo
dài trong 3 đến 10 phút.
Thuốc
này chống chỉ định tương đối khi bệnh nhân bị nhịp tim chậm hay bị hen phế
quản. Khi làm test cũng nên chuẩn bị Atropin 1-2 mg để xử trí khi có tác dụng
phụ muscarinic của các thuốc trên. Lưu ý test Tensilon không phải đặc hiệu cho
tất cả bệnh nhược cơ, nó âm tính ở nhược cơ bẩm sinh do thiếu Ach ở tấm vận
động cơ vân, ở bệnh nhân khiếm khuyết tái tổng hợp Ach. Test này dương tính
không ổn định ở hội chứng kênh chậm (slow channel syndrome) và trong hội chứng
kênh nhanh dẫn truyền cao (high-conduction fast-channel syndrome). Chính vì
những lý do trên mà test này không phân biệt được nhược cơ tự miễn bẩm sinh hay
mắc phải và test này âm tính cũng không loại trừ nhược cơ bẩm sinh.
Theo
Osserman chia bệnh nhược cơ thành 4 giai đoạn:
É Giai đoạn 1: nhược cơ
khu trú một nhóm cơ, thường ở mắt 15%.
É Giai đoạn 2:
· Giai đoạn 2a: nhược cơ
toàn thân lành tính, chỉ xâm phạm các cơ ngoại vi, không rối loạn nuốt và khó
thở chiếm 60%.
· Giai đoạn 2b: nhược cơ
toàn thân lành tính, chỉ xâm phạm các cơ ngoại vi, kèm rối loạn nuốt nhưng
không rối loạn hô hấp.
É Giai đoạn 3: nhược cơ
toàn thân nặng, cấp, thiết lập nhanh với liệt các cơ ngoại vi và có rối loạn hô
hấp, tương ứng với cơn nhược cơ. Thể tiến triển chiếm 15% nhược cơ.
É Giai đoạn 4: thiết lập
nặng dần của nhược cơ đã có từ lâu, tiến triển của những thể nhược cơ khác.
Như
vậy, nhược cơ nặng là bắt đầu giai đoạn 2b của Osserman.
Cơn
nhược cơ nặng cần được hồi sức hô hấp khi có 1 trong các dấu hiệu:
É Suy hô hấp cấp do liệt
cơ hô hấp nếu thấy lòng ngực xẹp khi thở vào mà cơ hoành vẫn di động bình
thường là liệt cơ liên sườn, nếu vùng thượng vị không phồng khi thở vào nhưng
cơ ức đòn chũm, cơ thang co kéo là liệt cơ hoành, còn mất phản xạ nuốt và ứ
đọng đờm dãi là liệt màn hầu. Liệt cơ hô hấp dẫn tới xẹp phổi và nghe phổi có
nhiều ral ẩm. Suy hô hấp còn do nuốt sặc và do tác dụng phụ của các thuốc kháng
cholinesterase vì thuốc này gây co thắt phế quản và tăng tiết đờm dãi.
É Ho khó hoặc không ho
được.
É Nói khó hoặc không nói
được.
É Nuốt khó hoặc hoàn toàn
không nuốt được.
É Nặng hơn là bệnh nhân
thoi thóp, hầu như không cử động.
É Nhược cơ nặng thường xảy
ra trong 4 năm đầu của bệnh.
Những
nguyên nhân có thể gây nhược cơ nặng, thường có những nguyên nhân sau:
É Do thuốc: dùng một trong
các loại thuốc nhóm cura (alloferine, celocurine, pavulon, succicurarine),
quinin, quinidin, procainamide, chẹn beta... Ngoàira một số thuốc khác cũng làm
bệnh nhược cơ nặng ra như phenobarbital, benzodiazepine, phenothiazine và kháng
sinh nhóm aminoside, colistine, neomycine; hydantoine, chế phẩm có chứa muối
magnesium, chẹn beta, thuốc dãn cơ...
É Do phẫu thuật và gây mê:
sử dụng các thuốc ức chế trung tâm hô hấp như morphine hoặc các dẫn chất của nó
hay các thuốc gây mê làm cho bệnh nhược cơ nặng lên nhanh chóng.
É Có thai và ngay sau
sinh: nhược cơ nặng ra thường vào 4 tháng đầu củathai kỳ và ngay lập tức sau
sinh, còn 6 tháng cuối thường không làm bệnh nặng ra nhưng khuyên nên nhập viện
15 ngày trước khi sinh trong khoa hồi sức sản khoa. Chú ý trẻ sơ sinh có thể bị
nhược cơ thoáng qua 8-18% với biểu hiện giảmtrương lực cơ, rối loạn bú, nuốt và
hô hấp xảy ra trong 24 giờ đầu sau sinh và có thể kéo dài đến 18 ngày hay 2
tháng.
É Do nhiễm trùng (vi
khuẩn/siêu vi) là yếu tố khởi động thường gặp ngay cả nhiễm trùng nhẹ nên phải
sử dụng kháng sinh ngay, chú ý loại kháng sinh gây bloc thần kinh cơ.
É Do chấn thương.
É Do gắng sức.
É Thời kỳ dậy thì và trước
lúc có kinh cũng làm nhược cơ nặng lên.
É Cường giáp đi kèm.
É Quá liều prostigmine.
Xét
nghiệm: khí máu, ion đồ... để đánh giá suy hô hấp và để phục vụ điều trị.
Cần
phân biệt cơn nhược cơ nặng và cơn cholinergic do quá liều kháng
cholinesterase: đang dùng các thuốc kháng cholinesterase mà nhược cơ nặng lên
đặt ra cho người thầy thuốc 2 vấn đề: đó là điều trị chưa đủ liều hay đã quá
liều. Khi quá liều (trên 600 mg pyridostigmine/ngày) gây khử cực liên tục
(thường xuyên) tấm vận động sinh các triệu chứng giống như dấu muscarin (tăng
tiết nước bọt và đờm dãi, co thắt cơ trơn gây đau bụng, nôn...) và có triệu
chứng nicotin (rung các thớ cơ). Bệnh nhân khó thở nhanh, tím, ral ẩm đầy hai
phổi. Từ đó tạo thành vòng luẩn quẩn yếu cơ-suy hô hấp. Ðôi khi rất khó phân
biệt, nên nhiều tác giả khuyên thử test tensilon nếu nhược cơ đỡ là thiếu thuốc
còn nặng ra hoặc không đỡ là quá liều kháng cholinesterase.
Mặc
dù có nhiều tiến bộ trong hồi sức nhưng tử vong vẫn còn cao khoảng 20-25%.
4. Triệu chứng cận lâm
sàng.
Ðiện sinh lý
Dấu
hiệu điển hình trong nhược cơ là đáp ứng của phức hợp điện thế hoạt động cơ bị
suy giảm sau kích thích dây thần kinh lặp lại với tần số 2-3 Hz. Sự suy giảm về
biên độhơn 10%, rõ nhất vào đáp ứng thứ 5 là bệnh lý.
Tuy nhiên nó không đặc hiệu cho bệnh nhược cơ, vì nó có thể thấy trong hội chứng Lambert-Eaton, nhược cơ bẩm sinh.
Tuy nhiên nó không đặc hiệu cho bệnh nhược cơ, vì nó có thể thấy trong hội chứng Lambert-Eaton, nhược cơ bẩm sinh.
Khi
kích thích dây thần kinh không thấy đáp ứng rõ thì làm test điện cơ sợi đơn cho
thấy có sự thay đổi về khoảng cách thời gian giữa hai điện thế hoạt động từ 2
sợi cơ (Jittergia tăng) cùng một đơn vị vận động.
Các test miễn dịch
Kháng
thể kháng thụ thể Ach có thể được phát hiện hơn 90% ở bệnh nhân nhược cơ toàn
thể và 50% nhược cơ thể mắt đơn thuần. Có hơn 0,4 nM Bungarotoxin gắn vào các
vị trí /lít là dấu hiệu đặc hiệu nhất để chẩn đoán bệnh nhược cơ. Song lượng
kháng thể kháng thụ thể Ach không liên quan đến độ trầm trọng của bệnh cũng như
sự phân bố yếu cơ.
Một
số bệnh nhân nhược cơ toàn thể không định lượng được kháng thể kháng thụ thể
Ach nhưng lại tìm thấy kháng thể kháng thụ thể tyrosine kinase đặc hiệu cơ
(muSK). Tự kháng thể đối với titin và thụ thể ryanodine của hệ lưới tương bào
cơ cũng được tìm thấy ở bệnh nhược cơ. Tuy nhiên vai trò của các tự kháng thể
này chưa được khẳng định.
Chẩn đoán hình ảnh
Ðại
đa số bệnh nhân nhược cơ có bất thường ở tuyến ức, nên chụp cắt lớp vi tính hay
cộng hưởng từ ngực và trung thất xem có u tuyến ức hay quá sản hay không.
5. Chẩn đoán
5.1. Chẩn đoán xác
định.
Triệu
chứng nhanh chóng mỏi cơ sau vận động: sụp mi, vận động yếu
Các
nghiệm pháp gây xuất hiện mỏi cơ khi BN mở to mắt hoặc giơ thẳng tay trước mặt.
Nếu dương tính hoặc sau vài phút sẽ xuất hiện mỏi cơ (sụp mi hoặc không giữ
được thẳng tay).
Test
Tensilon: rất có giá trị để chẩn đoán nhược cơ.
Các
XN khác: điện cơ, test huyết thanh có giá trị gợi ý chẩn đoán
5.2. Chẩn đoán phân
biệt.
Hội chứng Lambert Eaton
Triệu
chứng lâm sàng cũng có yếu cơ nhưng chủ yếu cơ thân mình, cơ đai vai hay chậu
và các cơ thuộc gốc chi dưới do phong bế kệnh canxi ở màng trước sinap thần
kinh cơ vân. Tính chất yếu cơ ngược với nhược cơ đó làsức cơ tăng lên khi co cơ
lặp đi lặp lại (cơ lực tăng sau gắng sức).
Thường
gặp ở những bệnh nhân có HLA-B8 và DR3. Nam gặp nhiều hơn nữ với tỷ lệ 5/1.
Kháng thể kháng kệnh canxi màng trước sinap thần kinh cơ là đặc hiệu, thấy
trong 60-80%. Ðiện chẩn đoán thấy tăng biên độ 300-500%trong 10-30 giây so với
lúc đầu sau 3-5 phút kích thích thì lại giảm.
Chuỗi
kích thích lặp lại liên tiếp 20-30 kích thích với tần số 20-50Hz thì thấy hiện
tượng tăng cường lên 200%. Chụp cắt lớp vi tính hay cộng hưởng từ phổi phát
hiện u tế bào nhỏ của phổi. Ngoài ra có thể thấy hội chứng nhược cơ ở bệnh nhân
bị ung thư vú, tiền liệt tuyến, dạ dày, trực tràng, hạch bạch huyết.
Ngộ độc thịt
Liệt
đối xứng 2 bên từ các dây thần kinh sọ rồi đến tay chân do ăn thịt hộp nhiễm
Clostridium botulinum type A, B và E.
Ðộc
tố tác động không những lên sinap thần kinh cơ vân mà còn lên thần kinh thực
vật. Vì vậy có triệu chứng nôn, nhìn mờ kèm mất phản xạ đồng tử, khô miệng,
liệt ruột, hạ huyết áp tư thế.
Ðiều
trị bằng huyết thanh chống độc tố 10.000 đơn vị tĩnh mạch sau đó tiêm bắp
50.000 đơn vị mỗi ngày cho tới khi hết liệt. Guanidin liều 25-50 mg/kg/ngày
cũng có hiệu quả vì nó tạo thuận lợi giải phóng acetylcholine.
Liệt do ve đốt (tickparalysis)
Bệnh
thường thấy ở Bắc Mỹ, Úc. Thường gặp ở trẻ em chơi ở các bãi cỏ hay khóm rừng
có ve. Sau 3-5 ngày bị cắn thì kích thích, tiêu chảy.
Yếu
cơ ở chi dưới rồi nhanh chóng liệt toàn thân. Ve thường trốn ở tóc, bám vào da
đầu.
Nguyên nhân khác
Nhược
cơ do thuốc (penicillamine), nhược cơ trong bệnh Basedow, liệt chu kỳ (bệnh
Wesphal), hội chứng Guillain-Barré, bệnh Addison, loạn lực cơ, viêm dây thần
kinh sọ...
6. Điều trị
Hướng
xử trí nhằm 4 mục tiêu sau:
É Hồi sức hô hấp (nếu có
suy hô hấp).
É Ðiều trị triệu chứng.
É Ðiều trị tự miễn.
É Phẫu thuật tuyến ức.
6.1. Hồi sức hô hấp
Các
biện pháp hồi sức hô hấp phải được thực hiện ngay lập tức, càng khẩn trương thì
khả năng cứu sống bệnh nhân càng nhiều.
Ngưng
cho bệnh nhân ăn qua đường miệng.
Ðặt
ống thông dạ dày.
Khai
thông đường dẫn khí là việc đầu tiên phải làm, nhưng dẫn lưu tư thế không được
đặt ra trong trường hợp nhược cơ.
Phải
đặt ống thông nội khí quản hoặc mở khí quản, nó cho phép hút đờm nhiều lần,
tránh được xẹp phổi, qua đó có thể tiến hành thở máy hoặc bóp bóng có hiệu quả
bất kỳ lúc nào. Không chỉ thế mà còn tránh được tai biến hít phải dịch vị.
Lưu
ý trước lúc đặt ống thông hoặc mở khí quản không tiêm valium, chỉ gây tê tại
chỗ.
Oxy
liệu pháp cung lượng cao 5-12 lít/phút qua ống thông mũi, ống nội khí quản.
Không dùng O2 trên 70% quá 48 giờ vì làm tổn thương phế nang gây bệnh màng
trong, co thắt động mạch và co giật.
Thở
máy được chỉ định khi thấy một trong những dấu hiệu sau đây:
É SaO2 dưới 60% (bình
thường 95-97%), PaCO2 trên 55mmHg (bình thường 40 mmHg)
É Rối loạn ý thức.
É Tình trạng suy hô hấp
cấp không đỡ sau khi đã dùng các biện pháp thông thường.
Có
thể ngưng thở máy khi thông khí phút bằng 10 lít và PaCO2 gần 40mmHg. Sau 24
giờ có thể rút ống nội khí quản. Tuy nhiên phải thận trọng sau khi rút xông vì
phù nề thanh quản hay do viêm tại chỗ nên lúc đó bệnh nhân phải gắng sức nhiều
để thở và ho, vì vậy có thể yếu cơ trở lại và gây ngừng thở.
6.2. Ðiều trị triệu
chứng
Nếu
đang dùng các thuốc kháng cholinesterase mà nhược cơ nặng lên thì có thể ngừng
tạm thời thuốc đó và cho thở máy, sau đó điều chỉnh liều.
Chưa
điều trị thì dùng thuốc kháng cholinesterase. Các thuốc này làm giảm sự phân
hủy acetylcholine và gây tích lũy ở tấm vận động. Các thuốc này có tác dụng
kiểu muscarine và nicotine nên giảm liều khi đã có hô hấp nhân tạo để tránh làm
suy hô hấp nặng thêm do thuốc. Chủ yếu dùng prostigmine 1mg tiêm bắp hay tĩnh
mạch lặp lại sau vài phút theo nhu cầu đồng thời tiêm bắp 0,25mg Atropine để
giảm bớt tăng tiết nước bọt và dịch phế quản. Nếu hết suy hô hấp cấp thì thay
bằng thuốc uống qua bảng sau:
Bảng. Các thuốc kháng cholinesterase
Thuốc
|
Thời gian tác dụng
|
Dạng thuốc
|
Liều
|
Prostigmine
(neostigmine) |
2-3
giờ
|
Viên
15mg
Ống 0,5mg |
5-20
viên/ngày hay 2-5 ống/ngày
|
Mestinon
(pyridostigmine) |
3-4
giờ
|
Viên
60mg
|
2-15
viên/ngày
|
Mytelase
(ambenonium) |
5-6
giờ
|
Viên
10mg
|
3-10
viên/ngày
|
Tensilon
(Edrophonium) |
10
phút
|
Ống
10mg
|
test
chẩn đoán 1 ống
|
Ðiều chỉnh nước và điện giải: bệnh nhược cơ nặng dễ bị mất nước vì tăng tiết nên phải bù dịch và năng lượng. Chú ý tình trạng hạ kali làm nặng thêm bệnh nhược cơ (lưu ý điện giải đồ). Nếu cần thì cho thêm kali clorua 100-200 mmol/24giờ, tốc độ chuyền 4-8 mmol/giờ. Trong mỗi lít có thể pha 50-75 mmol (1g KCl = 13 mmol).
Chuyền
tĩnh mạch gamma-globulines (IgG) với liều 0,4 g/kg/24 giờ trong 5 ngày, cải
thiện lâm sàng tối đa giữa ngày thứ 15 và 25 ở một nửa số trường hợp nhưng đó
là giải pháp tạm thời.
Tác
dụng của globulines miễn dịch là tương tác với các thụ thể Fc ức chế lên các tế
bào thực bào và các tế bào trình diện kháng nguyên. Chúng có thể trung hòa trực
tiếp các tác dụng chèn của kháng thể lên thụ thể Ach.
Dùng
kháng sinh chống bội nhiễm lưu ý loại kháng sinh gây bloc thần kinh cơ.
Có
thể dùng thuốc chống thụ thai ở bệnh nhân lên cơn nhược cơ nặng lúc có kinh.
Chú
ý loại bỏ các nguyên nhân làm cơn nhược cơ nặng lên.
6.3. Ðiều trị tự miễn
Lọc
huyết thanh bằng máy tách tế bào hay bởi màng lọc 2-3 lần có khi 3-5 lần/tuần, có
hiệu quả trên 2/3 trường hợp. Hiệu quả có thể thấy trong vòng 24 giờ, tuy nhiên
thường rõ ràng sau ngày thứ hai.
Hiện
nay để gia tăng tính chọn lọc và hiệu quả thì dùng gel polyvinyl alcohol hoặc
cột protein A để không hấp thu albumin và protein. Dĩ nhiên lọc huyết tương
không phải là vô hại mà có thể có những biến chứng như sau: phản ứng tim mạch,
rối loạn điện giải, nhiễm độc, huyết khối, viêm tắc tĩnh mạch. Khi lọc không
chỉ loại bỏ kháng thể kháng Ach mà còn làm giảm rõ các chất trung gian gây viêm
nhưng sau đó lại tăng lên nên phải phối hợp với thuốc ức chế miễn dịch như
Prednisolon 1 mg/kg/ngày đơn độc hoặc phối hợp với azathioprine (Aza, Imurel) 2
mg/kg/ngày.
Khi
kết hợp corticoid và Aza thì số lượng bạch cầu tăng nên không cần thiết theo
dõi công thức bạch cầu như khi dùng Aza đơn thuần (mỗi tuần trong 2 tháng đầu
và mỗi tháng sau đó, nếu bạch cầu < 3000/mm3 thì ngưng điều trị). Lưu ý khi
dùng corticoide đôi khi có suy hô hấp cấp đột ngột trong 3 ngày đầu (cảnh giác
hạ K+). Sau khi hết suy hô hấp hay hết rối loạn nuốt thì duy trì liều tác dụng
trong 1-3 tháng rồi chuyển sang điều trị cách nhật trong 1-2 tháng.
Khi
kết quả tốt thì giảm liều từ từ. Có thể sử dụng ACTH 100mg hoặc synacthène 1mg
tiêm bắp hoặc tĩnh mạch, 10 ngày sau có thể tiêm đợt 2. Sau đó củng cố bằng một
liều ACTH hoặc synacthène chậm 3 tuần 1 lần. Cyclosporine A (Cic A) ngăn cản sự
sao chép RNAs thông tin cho các cytokines chìa khóa. Liều 5 mg/kg, nhưng do nó
độc cho gan và thận, làm tăng huyết áp, run, rậm lông, giá lại cao nên là thuốc
lựa chọn thứ hai.
Các
thuốc ức chế miễn dịch khác như cyclophosphamide và methotrexate thường dùng
trong nhược cơ nặng khi điều trị corticoid không hiệu quả. Thuốc được sử dụng
là mycophenolate mofeti (CellCept) tác động lên chuyển hóa DNA. Hiệu quả của nó
chậm sau 3-12 tháng hoặc hơn. Có hiệu quả 50%.
Các thuốc ức chế miễn dich thường được sử
dụng.
Corticoid:
(Prednisolon, Medrol)
É Có 50 – 70% số BN đáp
ứng với Corticoid liều cao
É Liều 1mg/kg dùng cách
ngày. Phải dùng trong thời gian 5 – 6 tháng sau đó giảm về liều tối thiểu và
duy trì ở liều tối thiểu có hiệu quả
Azathioprin
É Có hơn 50% BN đáp ứng
tốt với thuốc
É Liều 150 – 200mg/ngày và
phải duy trì ít nhất 3 tháng trở lên
Cycloporin
A (Neoral, Sandimmume Neoral)
É Thuốc có tác dụng ức chế
đáp ứng miễn dịch phụ thuộc tế bào T, thường có hiệu quả trong những trường hợp
nhược cơ nặng sau 1 – 2 tháng điều trị và đạt hiệu quả tối đa sau 6 tháng hoặc
dài hơn
É Thuốc có nhiều tác dụng
phụ: tổn thương thận, tăng HA
É Liều 5mg/kg/ ngày
Cyclophosphamid
(Endoxan, Cytoxan)
É Là thuốc gây độc tế bào
thuộc nhóm Alkyl hóa có tác dụng ức chế phản ứng miễn dịch thứ phát.
É Có trên 50% đáp ứng hoàn
toàn
6.4. Phẫu thuật cắt bỏ
tuyến ức
Phẫu
thuật cắt bỏ tuyến ức biện pháp tích cực khi có u hay loạn sản ở các bệnh nhân
nhược cơ. Thực hiện phẫu thuật sau gây tê tại chỗ. Cắt bỏ tuyến ức toàn bộ mang
lại hiệu quả lâu dài. Nếu có sự xâm lấn của tuyến ức thì sau phẫu thuật tốt
nhất phải chạy tia xạ hay hóa trị liệu. Không phải là chỉ định tốt về phẫu
thuật khi đối tượng là người già từ 70 tuổi trở lên, thể mắt đơn thuần, khi mà
nhược cơ lâu năm đã gây tổn thương tấm vận động cơ vân không hồi phục. Nhiều
trường hợp sau phẫu thuật không cần dùng thuốc hoặc dùng liều thấp như vậy
tránh được cơn nhược cơ nặng về sau.
Chú
ý sau khi phẫu thuật một tuần mới sử dụng corticoid để tránh nhiễm trùng do
giảm miễn dịch và để chóng lành sẹo.
Nên
giáo dục cho bệnh nhân biết những nguyên nhân gây nhược cơ nặng nhằm tránh xảy
ra các biến chứng đáng tiếc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét