HỘI
CHỨNG TAN MÁU
1. Định nghĩa.
Hội
chứng tan máu (còn được gọi là huyết tán) là tình trạng hồng cầu vỡ quá nhanh,
quá nhiều so với mức vỡ sinh lý của hồng cầu và đời sống của hồng cầu bị ngắn
lại.
Bình
thường khoảng 1% tổng số hồng cầu (chủ yếu là hồng cầu già) của cơ thể chết đi
(gọi là tan máu sinh l) và tương ứng có một số lượng hồng cầu mới được sinh ra
từ tủy xương để bù lại. Do nhiều nguyên nhân, số lượng hồng cầu chết nhiều hơn
sẽ gây ra huyết tán bệnh lý. Nếu huyết tán nhiều hoặc kéo dài, tủy xương không
sản xuất kịp hồng cầu mới để bù đắp, cơ thể sẽ bị thiếu máu và thiếu máu này
được gọi là thiếu máu tan máu.
Cần
chú ý: tủy xương có khả năng bù đắp gấp 6 lần bình thường, nên một số bệnh nhân
có tan máu nhưng vẫn có thể chưa có các triệu chứng của thiếu máu. Ở người bị
tan máu cấp tính, cơ thể có thể trải qua giai đoạn suy tủy tạm thời.
2. Cơ chế bệnh sinh tan
máu.
Sự
tồn tại hồng cầu phụ thuộc vào độ nhớt và tính dẻo dai của màng hồng cầu; tỷ lệ
diện tích và thể tích của hồng cầu; nồng độ huyết sắc tố (hemoglobin) của hồng
cầu; và các men chuyển hóa glucoza, chuyển hóa nucleotid của hồng cầu. Do nhiều
nguyên nhân khác nhau, hồng cầu có thể bị tan vỡ, đời sống hồng cầu bị rút ngắn
lại (bình thường là 120 ngày).
Hồng
cầu có thể bị tan vỡ theo hai cơ chế:
É Tan máu trong lòng mạch:
thường gặp do hồng cầu có hình thái không bình thường, hoặc do tác nhân bám vào
màng và phá vỡ hồng cầu. Hồng cầu bị vỡ giải phóng huyết sắc tố tự do trong
máu, một phần đào thải qua thận (gây huyết sắc tố niệu), một phần được gan
chuyển hóa tạo bilirubin.
É Tan máu trong tổ chức:
hồng cầu bị tan vỡ trong lách, gan và các tổ chức liên võng. Nguyên nhân hay
gặp là do các hồng cầu có biến đổi về hình thái hoặc ở trạng thái bị ngưng kết
dễ bị bắt giữ bởi đại thực bào và các tế bào có thẩm quyền miễn dịch trong tổ
chức liên võng, gan lách... Thường không có huyết sắc tố tự do trong máu,
bilirubin máu ít hoặc không tăng, gan lách có thể to.
3. Phân loại tan máu
Có
thể xếp loại hội chứng tan máu theo nguyên nhân hoặc theo cơ chế bệnh sinh. Tuy
nhiên, theo cách nào thì kết quả cũng đều như nhau. Ở tan máu bẩm sinh, nguyên
nhân bệnh ở bên trong hồng cầu; ở tan máu mắc phải, nguyên nhân bệnh ở ngoài
hồng cầu.
3.1. Tan máu do nguyên
nhân tại hồng cầu
Thường
gặp do bệnh lý tan máu di truyền, bẩm sinh.
3.1.1. Do bất thường ở
màng hồng cầu
Bệnh
hồng cầu nhỏ Minkowski - Chaufard: bệnh di truyền, sức bền hồng cầu giảm, hồng
cầu hình bi.
Bệnh
hồng cầu hình gai, hình thoi...
Bệnh
huyết sắc tố niệu kịch phát ban đêm.
3.1.2. Do bất thường về
men của hồng cầu
Thiếu
meng 6PD (glucoza - 6 - photphat - dehydrogenaza): thường tan máu sau dùng
thuốc (đặc biệt là quinin)
Thiếu
men pyruvatkinaza (PK); thiếu các men trong quá trình thoái hóa glucoza.
Thiếu
men gluthation reductaza
3.1.3. Do bất thường của
huyết sắc tố
Do
bất thường về số lượng các chuỗi polypeptid trong các globin của huyết sắc tố:
É Bệnh beta - thalassemie
(bệnh huyết sắc tố F và huyết sắc tố A 2).
· Thể nặng: đồng hợp tử
(bệnh Colley).
· Thể nhẹ: dị hợp tử (bệnh
Rieth - Greppi - Michel).
É Bệnh anpha - thalasemi
(bệnh huyết sắc tố H).
Do
bất thường về chất lượng và rối loạn về cấu trúc các chuỗi polypeptid trong
globin của huyết sắc tố.
É Bệnh hồng cầu hình bia
(HbS).
É Các bệnh về huyết sắc tố
khác (HbC, HbD, HbE, HbG...).
3.2. Tan máu nguyên
nhân ngoài hồng cầu
3.2.1. Nhóm không do
miễn dịch
Do
nhiễm độc các thuốc (chống sốt rét, nitrit, sulfamid...) và hóa chất (benzen,
toluen, TNT...), các sản phẩm từ thực vật (nấm độc...) hoặc động vật (nọc
rắn...), cũng có thể do nhiệt độ (bỏng nóng hay bỏng lạnh)...
Do
nhiễm trùng và ký sinh trùng: nhiễm khuẩn huyết (liên cầu khuẩn tan huyết, tụ
cầu...), ký sinh trùng (sốt rét...).
Do
các nguyên nhân khác: tan máu do cơ học như trong tim nhân tạo, tuần hoàn ngoài
cơ thể, do van tim nhân tạo...
3.2.2. Nhóm do miễn
dịch
Tan
máu miễn dịch do đồng miễn dịch:
É Truyền nhầm nhóm máu.
É Bất đồng máu mẹ con hệ
ABO, hệ Rh...
Tan
máu miễn dịch tự miễn dịch.
4. Triệu chứng chung
của hội chứng tan máu
4.1. Triệu chứng lâm
sàng
Hội
chứng thiếu máu: tùy theo nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh, tình trạng thiếu máu
diễn ra từ từ hoặc là đột ngột và thường có tính chất đẳng sắc. Mức độ thiếu
máu nặng hay nhẹ phụ thuộc vào tan máu nhiều hoặc ít, bệnh nhân cảm thấy khó
chịu, nhức đầu, bồn chồn, hoa mắt, chóng mặt, mệt mỏi, giảm sức lao động, hồi
hộp đánh trống ngực, khó thở ít hay nhiều, rối loạn tiêu hoá... Khám thấy các
dấu hiệu của thiếu máu như: da xanh, niêm mạc nhợt, biến đổi lông tóc, móng,
nhịp tim nhanh và có thể thấy tiếng thổi tâm thu cơ năng, lưỡi nhợt nhưng còn
gai lưỡi...
Có
hội chứng vàng da, vàng da nhiều hay ít phụ thuộc mức độ tan máu nhiều hay ít,
da màu vàng rơm không kèm theo ngứa; nước tiểu mầu vàng sẫm và phân sẫm màu.
Lách
to: thường bao giờ cũng gặp; to nhiều hay ít, đau nhiều hoặc không đau phụ
thuộc nguyên nhân và diễn biến của tan máu, lách thường có mật độ chắc nhưng có
thể mềm trong tan máu cấp.
Bệnh
nhân có thể không sốt, sốt nhẹ trong tan máu mạn hoặc có thể có sốt cao dữ dội
khi tan máu cấp. Ngoài ra có thể có gan to (hay gặp trong tan máu bẩm sinh),
tắc tĩnh mạch...
4.2. Triệu chứng xét
nghiệm
4.2.1. Các triệu chứng
do phân huỷ hồng cầu quá mức:
Số
lượng hồng cầu và lượng huyết sắc tố trong máu giảm; hồng cầu bình thường và
đẳng sắc (các chỉ số hồng cầu nằm trong mức bình thường); cũng có thể gặp hồng
cầu to, không đồng đều hoặc có hạt ưa kiềm (thường thấy trong tan máu bẩm
sinh).
Bilirubin
gián tiếp và hemoglobin tự do tăng trong máu, haptoglobin máu giảm; stercobilin
trong phân tăng (bình thường khoảng từ 200 - 300mg/ 24 giờ); urobilin nước tiểu
tăng, có thể thấy hemosiderin niệu.
Sắt
huyết thanh tăng, nhưng có thể bình thường nếu huyết tán nhẹ hay tủy xương tăng
cường hoạt động.
Đời
sống hồng cầu giảm, xét nghiệm nửa đời sống hồng cầu bằng đồng vị phóng xạ crôm
51 có T 1/2 giảm (bình thường là 30 ± 3 ngày); sức bền hồng cầu giảm hay tăng
tùy theo nguyên nhân, thường gặp là giảm, nhưng tăng trong bệnh thalassemi.
Giải
phẫu bệnh: Lách to gấp 1,5 - 2 lần bình thường, xung huyết và có nhiều đại thực
bào, ứ đọng nhiều hemosiderin; trong gan cũng có nhiều đại thực bào và ứ đọng
hemosiderin; tủy xương xung huyết, có nhiều đại thực bào, tăng sinh nguyên hồng
cầu và ứ đọng hemosiderin; thận có biểu hiện thoái hóa các ống thận (hay gặp
trong tan máu do truyền nhầm nhóm máu hoặc tan máu bẩm sinh).
4.2.2. Các triệu chứng
do tủy xương tăng hoạt động
Hồng
cầu lưới tăng (có thể lớn hơn 30%, khoảng 50 - 100G/l).
Có
nguyên hồng cầu trong máu ngoại vi, thường là dạng đa sắc và ái toan.
Tủy
xương tăng sinh mạnh, nguyên hồng cầu trong tủy lớn hơn 30 - 40% chủ yếu là
nguyên hồng cầu đa sắc và ái toan.
5. Triệu chứng của cơn
tan máu cấp
Do
hồng cầu vỡ quá nhanh, quá nhiều nên trên cơ sở các triệu chứng chung cơn tan
máu cấp thường có
5.1. Triệu chứng lâm
sàng
Sốt
cao rét run từng cơn.
Thiếu
máu đột ngột tăng nhanh.
Đau
bụng, đau vùng thắt lưng dữ dội
Vàng
da, niêm mạc tăng lên rõ rệt.
Lách
to nhanh, đau nhiều.
Nước
tiểu đỏ nâu, để vài giờ sau trở thành màu đen đục (do có huyết sắc tố tự do
trong nước tiểu)
Có
thể có choáng và truỵ tim mạch, thiểu niệu, vô niệu, huyết khối...
5.2. Triệu chứng xét
nghiệm
Số
lượng hồng cầu, lượng huyết sắc tố giảm nhanh; xuất hiện nhiều nguyên hồng cầu
trong máu.
Hồng
cầu lưới tăng cao.
Huyết
sắc tố tự do trong máu tăng cao, giảm nặng haptoglobin máu.
Có
huyết sắc tố trong nước tiểu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét