GIẢI
PHẪU SINH LÝ THẦN KINH TỌA
Ts. Bs. Nguyễn Vĩnh Ngọc
1. Đại cương
Dây
thần kinh toạ (TKT) còn được gọi là thần kinh hông to, là một dây thần kinh dài
nhất cơ thể, trải dài từ phần dưới thắt lưng đến tận ngón chân. Có hai dây
thần kinh toạ, phải và trái để điều khiển từng bên tương ứng. TKT có ba chức
năng chính là chi phối cảm giác, vận động dinh dưỡng, góp phần nuôi dưỡng các
vùng mà nó đi qua.
Đau
thần kinh toạ lần đầu tiên được nhà giải phẫu học người Ý Domenico Cotugno
miêu tả vào giữa thế kỷ 18. Đây là bệnh rất thường gặp, đứng hàng thứ hai
trong số các bệnh phải vào điều trị tại khoa khớp của bệnh viện Bạch mai sau
bệnh viêm khớp dạng thấp. Việc tìm hiểu các đặc điểm giải phẫu và sinh lý của
dây thần kinh tọa góp phần thiết thực cho công tác chẩn đoán và điều trị bệnh.
2. Đặc điểm giải phẫu
thần kinh tọa
Tại
cột sống dây thần kinh toạ bắt nguồn từ các rễ thần kinh thắt lưng 5 (L5) và
dây cùng 1 (S1), xuất phát từ tuỷ sống. Ngoài ra nó còn nhận thêm các rễ thần
kinh thắt lưng 4, và các rễ cùng 1,2,3 thuộc đám rối cùng. Rễ L5 rời bao màng
cứng ở mức bờ dưới thân đốt sống L4, còn rễ L5 ở bờ dưới thân đốt sống L5. Tại
phần gốc của mình, thân dây thần kinh toạ có mặt cắt ngang hình ôvan, có chiều
rộng gần 1,5 cm và dày tới 0,5 cm ở người trưởng thành
Trong
vùng khung chậu nhỏ, TKT nằm trước cơ lê rồi chui qua dưới cơ lê qua lỗ mẻ hông
to đi vào vùng mông. Ở trong khung chậu, dây thần kinh toạ nằm trước khớp cùng
chậu. Tiếp đó, TKT thoát khỏi khung chậu khi đi qua khoảng giữa mấu chuyển lớn
của xương đùi và ụ ngồi để xuống đùi.
Ở
chi dưới, dây TKT chạy dọc theo mặt sau đùi, chạy dọc xuống khoeo chân và phân
chia thành 2 nhánh hông khoeo trong (thần kinh chày) và hông khoeo ngoài (thần
kinh mác chung) ở đỉnh trên của khoeo chân. Dây hông kheo trong, chứa các sợi
thuộc rễ S1, tới mắt cá trong, chui xuống gan bàn chân và kết thúc ở ngón chân
út. Dây hông khoeo ngoài có các sợi thuộc rễ L5, đi xuống mu chân, kết thúc ở
ngón chân cái.
3. Chức năng thần kinh
tọa
Dây
thần kinh chi phối các động tác của chân như duỗi háng, gấp đầu gối, ngồi xổm,
gấp bàn chân, kiễng gót chân hay kiễng ngón chân, góp phần làm nên các động tác
đi lại, đứng, ngồi của hai chân. Chính vì vậy nên đây là một dây thần kinh rất
quan trọng của cơ thể.
Mỗi
rễ của dây TKT phân chia ở chân có vai trò riêng. Rễ thắt lưng L5 (nhánh hông
khoeo ngoài) chịu trách nhiệm chi phối vận động các cơ ở cẳng chân trước ngoài
(thực hiện các động tác như gấp bàn chân, duỗi các ngón chân, đi trên gót chân)
và chi phối cảm giác một phần mặt sau đùi, mặt trước ngoài cẳng chân và các
ngón chân cái và các ngón lân cận. Rễ cùng S1(nhánh hông khoeo trong) chi phối
vận động các cơ ở cẳng chân sau (thực hiện các động tác như duỗi bàn chân, gấp
các ngón chân, đi trên đầu ngón chân); và chi phối cảm giác mặt sau đùi, mặt
sau cẳng chân, bờ ngoài bàn chân và 2/3 ngoài gan chân.
4. Thoát vị đĩa đệm –
cơ chế chủ yếu gây đau TK tọa
Đĩa
đệm nằm ở khe giữa hai đốt sống, có hình giống như một lăng kính lồi, cấu tạo
bởi lớp vỏ sợi bên ngoài bọc nhân nhày ở trung tâm. Nhờ tính đàn hồi, đĩa đệm
làm nhiệm vụ như một cái giảm sóc, bảo vệ cột sống khỏi bị chấn thương (ngã dồn
cột sống, khiêng vác nặng...).
Vào
năm 1928, GS De Seze (Pháp) lần đầu tiên cho rằng nguyên nhân chính của đau
thần kinh toạ chủ yếu là do thoát vị đĩa đệm vùng cột sống thắt lưng. Ở những
người trên 30 tuổi, đĩa đệm thường không còn mềm mại, nhân nhày có thể bị khô,
vòng sụn bên ngoài xơ hóa, rạn nứt và có thể rách. Trên cơ sở đó nếu có một lực
tác động mạnh vào cột sống (chấn thương, gắng sức...), nhất là sau động tác cúi
xuống năng vật nặng, nhân nhày có thể qua chỗ rách của đĩa đệm thoát vị ra
ngoài chui vào ống sống gây chèn ép rễ thần kinh vùng cột sống thắt lưng gây
đau thần kinh toạ. ). Hiện nay nguyên nhân thoát vị đĩa đệm chiếm 80% các bệnh
lý vùng cột sống thắt lưng cùng
5. Liên quan các cấu
trúc giải phẫu khác của cột sống TL và đau TK tọa
Vùng
thắt lưng được giới hạn trên bởi bờ dưới xương sườn 12, hai bên bởi khối
cơ thẳng cạnh cột sống và phía dưới là xương chậu. Đoạn cột sống thắt lưng bao
gồm 5 đốt sống và 6 đĩa đệm. Cấu tạo nói chung gồm thân đốt sống cứng, còn đĩa
đệm, dây chằng và bao khớp thì đàn hồi, cho phép cột sống đảm bảo được chức
năng của mình. Vùng cột sống thắt lưng phải gánh chịu sức nặng của cơ thể nên
các thành phần cấu tạo (cơ, dây chằng) chắc, khoẻ, thân đốt sống và đĩa đệm có
kích thước lớn hơn các đoạn cột sống khác.
TKT
cũng như các rễ thần kinh tuỷ khác có mối liên quan chặt chẽ với ống sống, đĩa
đệm, mâm sụn, cũng như các khớp liên mấu sau, dây chằng... Mỗi thay đổi của một
cấu trúc nói trên đều có thể gây đau cột sống thắt lưng và đau thần kinh toạ.
Giải
phẫu các dây chằng: Các dây chằng có nhiệm vụ gia cố, làm tăng độ vững chắc của
cột sống, đảm bảo chức năng vận động. Các dây chàng chính là dây chằng dọc
trước, dọc sau và liên gai. Dây chằng dọc trước phủ thành trước của thân đốt
sống, đây chằng dọc sau phủ phần sau của vòng sợi đĩa đệm song không phủ hết,
để lại phần sau bên của sợi tự do nên hay gây thoát vị ở vùng này nhất.
Các
lỗ liên đốt: Lỗ liên đốt cho rễ dây TKT đi qua nên đóng vai trò rất quan trọng.
Do ở sát các đĩa đệm và rễ, nên chỉ cần một thay đổi nhỏ (thoát vị đĩa đệm...),
rễ thần kinh thoát ra cũng bị chèn trong lỗ liên đốt, gây đau.
Khớp
liên đốt sống: Ở đoạn cột sống thắt lưng, lỗ liên đốt được giới hạn phía sau
bởi các diện khớp nhỏ đốt sống. Những thay đổi của các diện khớp này có thể gây
hẹp lỗ liên đốt.
Ngoài
ra còn có các yếu tố khác như các bất thường về chu vi đĩa đệm, các di lệch cột
sống... cũng ảnh hưởng đến các rễ thần kinh chui qua lỗ, là các nguyên nhân gây
đau cột sống thắt lưng và đau thần kinh toạ.
Tóm
lại, biết được các đặc điểm giải phẫu, phân bố và chức năng của dây TKT, người
ta có thể chẩn đoán được đau thần kinh toạ, hiểu được rễ nào bị tổn thương,
cũng như lý giải được nguyên nhân gây bệnh. Từ đó chúng ta có biện pháp điều
trị phù hợp với kết quả cao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét