RỐI
LOẠN KHỐI LƯỢNG MÁU TUẦN HOÀN
ĐH Y Hà Nội
1. Đại cương
Máu
nằm trong hệ tim mạch nhưng luôn có sự trao đổi giữa máu và tổ chức cho nên
trong điều kiện bệnh lý khối lượng máu tuần hoàn cũng như sự tương quan giữa
hồng cầu và huyết tương, thường có những biến đổi gây mất cân bằng giữa sức
chứa và khối lượng dịch, ta gọi chung là rối loạn huyết động học.
Ở
người khỏe mạnh khối lượng máu phụ thuộc vào 3 yếu tố: Tổng lượng máu của cơ
thể bằng 6- 8% cân bằng toàn thân, trong đó khối lượng hồng cầu phải ở mức bình
thường thay đổi từ 36- 48%(hematocrit) Hệ tim mạch kể cả các kho dự trữ máu
(lách và gan). Đó là sức chứa luôn luôn được điều chỉnh để duy trì khối lượng
máu tuần hoàn (bình thường khối lượng máu tuần hoàn chiếm 3/4, dự trữ 1/4, của
tổng lượng máu) Sự phân bố máu điều hòa giữa các khu vực (tiểu tuần hoàn, tuần
hoàn não, tuần hoàn gánh, dưới da thận, gan).
2. Thay đổi khối lượng
máu
2.1. Thay đổi sinh lý
của khối lượng máu
Thay
đổi theo tuổi: trẻ con khối lượng máu nhiều hơn người lớn.
É Người lớn 76,6 ml/cân
É Trẻ con 77,1 ml/cân
É Trẻ sơ sinh 84,7 ml/ cân
(Mollison)
Thay
đổi theo tư thế và hoạt động: tư thế đứng là giảm, thế nằm làm tăng khối lượng
máu. Nằm nghỉ không hoạt động trong 2- 3 tuần liền, khối lượng huyết tương giảm
rõ rệt.
Thay
đổi do thai nghén: từ tháng thứ 3, khối lượng máu tăng, tháng thứ 9 tăng cao
nhất, chủ yếu là tăng huyết tương nên ở phụ nữ có thai khối lượng hồng cầu
giảm.
2.2. Thay đổi bệnh lý
của khối lượng máu
2.2.1. Tăng khối lượng
máu
Được
chia thành nhiều loại:
Tăng
song song cả huyết tương cả tế bào máu và hiện tượng nhất thời sau khi truyền
một khối lượng lớn máu hoặc sau khi lao động nặng.
Tăng
khối lượng máu nhưng giảm tế bào, chỉ tiêu hematocrit giảm có thể phát sinh khi
bị bệnh thận do thiểu năng chức phận lọc; trong giai đoạn có phù nề (do dịch
gian bào vào dòng máu) hoặc sau khi tiêm các dung dịch sinh lý và dịch thay thế
máu. Truyền nhanh cho động vật mọi khối lượng lớn dung dịch sinh lý có thể dẫn
tới tử vong do rối loạn nghiêm trọng tuần hoàn với ứ máu tiểu tuần hoàn và phù
phổi cấp. Trong một số thể thiếu máu, suy mòn và các trạng thái giảm số lượng
hồng cầu mà không có biến đổi tổng lượng máu thì khối lượng máu bình thường
nhưng hematocrit vẫn giảm
Tăng
khối lượng máu, tăng tế bào: có thể gặp ở các bệnh nhân tim, các dân sống trên
núi cao, có tính chất thích nghi bù đắp. Tăng sản xuất hồng cầu có thể là do
bệnh ác tính của hệ tạo máu(bệnh nguyên hồng cầu ác tính). Khối lượng máu tăng
gấp đôi hoặc hơn nữa do khối lượng hồng cầu, hematocrit tăng. Trong thực nghiệm
trên động vật đã xác định rằng tăng khối lượng máu đến 100% cũng không gây ra
biến đổi bệnh lý đáng chú ý. Khi tăng đến 150% và hơn nữa mới phát sinh rối
loạn tuần hoàn nghiêm trọng do làm căng và làm giảm trương lực các mạch máu,
tính thấm thành các mao mạch tăng cường dẫn đến mất huyết tương vào trong tổ
chức và các khoảng thanh mạc, máu đông lại trở ngại hoạt động của tim.
2.2.2. Giảm khối lượng
máu
Cũng
chia nhiều loại:
Giảm
song song huyết tương và tế bào phát sinh nhất thời do mất máu cấp hoặc shock
khi một khối lượng đáng kể máu bị ứ bệnh lý không tham gia vào vòng tuần hoàn,
chỉ tiêu hematocrit không thay đổi.
Giảm
tế bào máu, chủ yếu giảm hồng cầu xuất hiện sau khi mất máu cấp khi khối lượng
máu được khôi phục bằng biện pháp huy động dịch gian bào vào dòng máu, chỉ tiêu
hematocrit giảm
Giảm
huyết tương hồng cầu vẫn bình thường nhưng bị co lại (máu cô), chỉ tiêu
hematocrit tăng tới 55- 60% và hơn nữa, phát sinh trong trường hợp mất nước, đi
lỏng nhiều lần, nôn dai dẳng, nhiễm nóng, mất nhiều mồ hôi, bỏng rộng…
3. Sinh lý bệnh của mất
máu
Mất
máu là một hiện tượng sinh lý phổ biến trong lâm sàng nội, ngoại khoa, đặc biệt
trong ngoại khoa thời chiến. Trong thực tế, mất máu thường gặp nhất là phối hợp
với chấn thương, và trong các vết thương huyết quản. Khó đánh giá đúng mức là
chảy máu trong màng phổi, ổ bụng, gian bào, cơ xương… Cơ xương có rất nhiều
mạch máu nhất là ở người trẻ và nở nang: gẫy xương đùi đơn thuần mất 1 lít máu;
gẫy xương nhiều mảnh có nhiều cơ bị hủy hoại có thể mất tới 2 lít máu.Trong
phẫu thuật, mất máu cũng có vai trò quan trọng: thủ thuật thân xương đùi, đóng
đinh, gh p xương… mất tới 1,5- 2 lít máu. Chảy máu nội khoa gặp trong thủng dạ
dầy, hang lao, bong rau thai sớm… cũng gây mất nhiều máu.
3.1. Diễn biến sau khi
mất máu
Khi
mất máu cơ thể phát sinh nhiều rối loạn, mức độ nặng nhẹ phụ thuộc vào ba yếu
tố:
3.1.1. Khối lượng mất
máu
Mất
máu ít, dưới 10% tổng lượng máu thường không gây hậu quả gì nghiêm trọng (người
cho máu) Mất máu từ 20% tổng lượng máu trở nên hậu quả thường phải lưu ý. Thống
kê trong chiến tranh Triều tiên trên 186 thương binh có 152 trường hợp mất máu
trên 20% đều bị shock (81,7%). Nói chung cả với người khỏe mạnh, mất 1 lần từ
1/4 đến 1/3 khối lượng máu đã rất đáng lo ngại cho đời sống vì huyết áp động
mạch giảm thấp gây thiếu oxy nghiêm trọng nhưng nếu mất từ từ trong nhiều ngày
một khối lượng máu như vậy lại không nguy hiểm do các cơ chế thích ứng bù đắp
của cơ thể phát huy tác dụng.
3.1.2. Tốc độ máu chảy
Tốc
độ máu chảy nhanh hay chậm, gây mất máu nhiều hay ít phụ thuộc vào vị trí mất
máu tĩnh mạch hay động mạch, huyết quản lớn hay nhỏ:
Chảy
máu động mạch, nhất là các động mạch lớn máu chảy thành tia mạnh nên thường
nguy hiểm hơn mất máu tĩnh mạch (chảy từ từ, nhỏ giọt). Chảy máu nhiều trong
một thời gian ngắn gây ra giảm huyết áp đột ngột tác động nên các thụ cảm áp
lực của thành mạch đồng thời tình trạng mất máu, thiếu oxy nuôi dưỡng hệ thần
kinh và các cơ quan quan trọng của cơ thể (tim, gan, thận, tuyến thượng thận)
cũng là những nguyên nhân gây shock và tử vong trong các trường hợp mất máu
nặng
Chảy
máu các tĩnh mạch nhỡ và nhỏ thường không nguy hiểm nhưng tổn thương cả tĩnh
mạch lớn nhất là các tĩnh mạch gần tim cũng quan trọng vì gây rối loạn đột ngột
sức chứa của tim, tim đập rỗng có thể gây phản xạ ngừng tim và chết mặc dù có
khối lượng máu mất không lớn lắm (300- 500 ml)
3.1.3. Tính phản ứng
của cơ thể
Trẻ
sơ sinh và trẻ con dưới 2 tuổi rất mẫn cảm với mất máu do khả năng bù đắp của
hệ tim mạch và hệ thần kinh chưa phát huy được đầy đủ.
Tình
trạng mẫn cảm với mất máu tăng khi cơ thể suy nhược, bị chấn thương nặng, mệt
mỏi, đói, lạnh, trong trạng thai gây mê sâu… có khối lượng máu mất chỉ 10- 15%
cũng gây những hậu quả nguy hiểm.
3.2. Cơ chế thích nghi
bù đắp khi mất máu
Khi
mất máu cơ thể sẽ động viên một chuỗi phản ứng sinh vật phức tạp nhằm bảo vệ cơ
thể ở một mức độ nhất định:
3.2.1. Phản ứng cầm máu
Tổn
thương huyết quản gây phản xạ co mạch tại chỗ, và các tiểu cầu tụ lại thành một
nút sinh học bịt kín vết thương, đồng thời có hiện tượng tăng cường các yếu tố
đông máu, tăng tạo thromboplastin tổ chức, tăng tạo fibrinogen gan và các yếu
tố khác. Kết quả là tính đông máu tăng, có thể gấp 3- 5 lần bình thường, hiện
tượng này xuất hiện ngay sau khi mất máu và kéo dài 5- 8h sau, cho nên máu có
thể ngừng chảy nhưng nếu không phát hiện được tổn thương mạch máu và có biện
pháp phòng ngừa thì khi vận chuyển thương binh có khi chỉ những động tác không
nhẹ nhàng, thay đổi tư thế… đã có thể gây chảy máu thứ phát, shock có thể dẫn
tới tử vong nếu không xử lý kịp thời
3.2.2. Phản ứng nâng
huyết áp (phản xạ tim mạch)
Do
mất máu, lượng máu lưu thông giảm, huyết áp động mạch giảm kích thích phản xạ
các thụ cảm huyết quản vùng xoang dộng mạch cảnh và quai động mạch chủ gây tăng
co bóp tim, mạch nhanh và mạnh hơn, tốc độ máu chảy cũng tăng cường. Đồng thời
có hiện tượng tăng tiết adrenalin gây co mạch ngoại vi và giãn các mạch não,
mạch vành. Kết quả là tim tăng cường hoạt động, co mạch ngoại vi và máu dự trữ
được phóng ra vòng tuần hoàn nên huyết áp động mạch được nâng lên tạm thời điều
hòa hiện tượng mất cân bằng huyết động lực, đồng thời cũng phân phối lại máu
bảo đảm cung cấp cho não và tim là các cơ quan quan trọng để duy trì sự sống.
3.2.3. Phản xạ tăng hô
hấp
Phát
sinh do kích thích phản xạ trung tâm hô hấp khi nồng độ O2/ máu giảm và nồng độ
CO2/ máu tăng. Hô hấp tăng cường, thở nhanh và sâu; quá trình trao đổi hơi khí
và sự phân ly HbO2, cũng tăng để tổ chức dễ dàng sử dụng oxy.
3.2.4. Phản ứng bù đắp
khối lượng máu
Lưu
lượng máu giảm gây tăng tiết ADH và aldosteron có tác dụng tăng tái hấp thu
nước và muối tại liên bào các ống thận do đó làm giảm bài tiết nước tiểu (thiểu
niệu hoặc vô niệu). Đồng thời có hiện tượng huy động dịch gian bào vào dòng
máu, được thực hiện thuận lợi vì lúc này áp lực máu giảm thấp. Trên thực tế,
khi mất 1 lít máu, khối lượng máu được khôi phục sau 8- 24h, có khi tới 2- 3
ngày sau mới khôi phục hoàn toàn. Vì mới chỉ khôi phục phần dịch nên máu loãng,
khối lượng hồng cầu và huyết cầu tố giảm, hematocrit cũng giảm, (đó là hiện
tượng thiếu máu sau khi mất máu)
3.2.5. Phản ứng tăng
tạo các tế bào máu
Phản
ứng này xuất hiện muộn nhất 4- 5 ngày sau, phát sinh do tình trạng thiếu oxy
máu kích thích tủy xương tăng tạo các tế bào máu có tính chất thích ứng bù đắp,
phản ứng của tủy xương và tốc độ tái tạo tế bào máu phụ thuộc vào tình trạng
toàn thân, mức độ mất máu và sự cung cấp các nguyên liệu tạo máu (protit, sắt…)
Cơ thể trẻ, khỏe mạnh, mất máu không nhiều lắm, dinh dưỡng đầy đủ thường hồi phục
nhanh hơn. ạch cầu và tiểu cầu đời sống ngắn, tái tạo nhanh nên chỉ 8- 10 ngày
số lượng ở máu ngoại vi đã có thể được khôi phục, hồng cầu thì phải tới 30- 50
ngày sau, châm nhất là huyết cầu tố phải sau 2 tháng mới trở lại mức bình
thường.
Như
vậy, nếu mất máu không nhiều lắm và điều trị giải quyết kịp thời, hợp lý thì
các phản ứng bù đắp của cơ thể có thể ổn định được tình trạng toàn thân. Nhưng
nếu mất máu nặng hoặc bệnh nhân ở vào các điều kiện hoàn toàn không thuận lợi,
có thể dẫn tới shock mất máu và các biến cố nguy hại cho đời sống.
Sơ đồ về bệnh sinh của mất máu
Tổn thương huyết quản Mất máu
↓
Giảm khối lương máu tuần hoàn
↓
↓
Giảm
huyết áp Tim co bóp
Giảm
Oxy- máu yếu Thiếu Oxy
↓
↓
Kích
thích thụ cảm huyết quản
Hưng
phấn hệ TKTƯ
↓
↓
↓
← Ức chế hệ TKTƯ
Tăng các phản ứng bù đắp
↓
↓
Hồi phục
Rối
loạn các chức phận và cơ chế bù
↓
Sốc MM → tử vong
4. Shock mất máu
Shock
mất máu là hiện tượng thứ phát xảy ra sau khi mất máu nặng diễn biến sau một
thời gian hạ huyết áp động mạch, sự oxy hóa không đầy đủ dẫn tới suy sụp hệ
TKTƯ và rối loạn nghiêm trọng toàn bộ chức năng cơ thể, biểu hiện rõ nhất là hệ
tuần hoàn. Mất máu càng nhanh, mạnh (chảy máu các động mạch, tĩnh mạch lớn)
càng nhiều (25- 30% và hơn nữa) thì shock mất máu phát sinh càng có tính chất
phổ biến và diễn biến càng nặng.
4.1. Các giai đoạn diễn
biến của shock mất máu: (hình 1).
Shock
mất máu thường diễn biến theo 3 giai đoạn (La porte, 1965).
4.1.1. Giai đoạn 1
(ngay sau khi mất máu)
Giai
đoạn này phụ thuộc vào mức độ mất máu và trạng thái từng cơ thể. Bệnh nhân
thường ở trạng thái vật vã, kích thích nhưng nếu mất máu nhiều lại mệt lả mặt
tái nhợt, chân tay lạnh, có thể ngất do thiếu oxy đột ngột ở não.
Huyết
áp động mạch giảm do giảm khối lượng máu tuần hoàn, mất máu càng nhiều huyết áp
giảm càng rõ, mất quá nhiều có thể gây trụy tim mạch dẫn tới tử vong do các
phản ứng bù đắp không kịp thời phát huy tác dụng.
Mạch
nhanh và mạnh phát sinh theo cơ chế phản xạ, nhưng nếu mất máu nhiều khối lượng
máu giảm nhiều tim có thể đập yếu và loạn nhịp,cơ sở để chuẩn đoán mức độ của
shock.
Hô
hấp cũng tăng cường, thở nhanh và sâu. Nhịp và tần số hô hấp có thể bị rối loạn
ngay khi mất máu nghiêm trọng.
4.1.2. Giai đoạn 2 (còn
gọi là giai đoạn tiềm)
Giai
đoạn này phụ thuộc vào khả băng thích ứng của cơ thể. Có hai khả năng:
Nếu
cơ chế thích ứng bù đắp của cơ thể phát huy tác dụng thì tình trạng bệnh nhân
có xu hướng hồi phục dần: huyết áp động mạch được nâng lên, mạch vẫn nhanh và
mạnh hơn, thường không quá 120 đập/ phút; hô hấp cũng đều và sâu hơn, sắc mặt
đỡ nhợt nhạt và chân tay đợ lạnh, tỉnh táo.
Nếu
các điểm diễn biến xấu dần đi, huyết áp không tăng mà tiếp tục giảm; mạch yếu,
rất nhanh và loạn nhịp; hô hấp rối loạn và thở nhanh- nông là cơ chế bù đắp đã
bất lực và shock có thể nhanh chóng chuyển sang giai đoạn nhược. c) Giai đoạn
shock nhược: Là giai đoạn suy sụp hệ TKTƯ và toàn bộ chức năng cơ thể, là giai
đoạn mất bù có thể khởi phát do một yếu tố thuận lợi: gây mê sâu, chấn thương,
đau đớn, lạnh, thay đổi tư thế, vận chuyển…
4.2. Bệnh sinh của
shock mất máu
Mắt
xích chủ yếu của bệnh sinh mất máu là giảm khối lượng máu tuần hoàn và thiếu
Oxy máu gây rối loạn nghiêm trọng hệ TKTƯ. Các tế bào não bị thiếu oxy nặng từ
hưng phấn nhanh chóng chuyển sang trạng thái ức chế sâu sắc gây rối loạn điều
hòa các chức phận và ức chế các cơ chế thích ứng bù đắp của cơ thể. Quan trọng
nhất là rối loạn hô hấp do hành não và các trung tâm hô hấp bị tổn thương và
rối loạn hoạt động tim do huyết áp động mạch giảm và thiếu oxy cơ tim. Tình
trạng này càng làm suy sụp sự cung cấp oxy cho tổ chức gây rối loạn chuyển hóa
nặng nề. Chết trong mất máu phát sinh do liệt trung tâm hô hấp và ngừng tim.
Do
tác dụng của catecholamin, hệ thống động mạch bị co thắt, tuần hoàn não và vành
giãn ra là cơ chế bảo vệ cho trung tâm sống như tuần hoàn gan, thận lại bị co
nhiều cho nên tình trạng này kéo dài càng gây những tổn thương nghiêm trọng
trong gan, thận, ruột, thượng thận… cũng là nguyên nhân làm cho shock khó hồi
phục.
Hệ
thống tĩnh mạch xẹp, không có máu, tuần hoàn trở về tim giảm ảnh hưởng tới hoạt
động tim dẫn đến ngừng tim. Hệ thống mao mạch bị giãn nghiêm trọng co rối loạn
các cơ thắt tiểu mao mạch. Máu ứ trong hệ mao mạch, chủ yếu khu vực nội tạng,
càng gây giảm huyết áp động mạch tạo thành vòng xoáy ốc bệnh lý làm cho shock
nặng thêm.
Nguyên
tắc chủ yếu của việc điều trị mất máu là khôi phục tuần hoàn, trả lại khối
lượng máu mất, giữ cân bằng huyết áp. Trong khi xử lý, đảm bảo cầm máu tốt và
nên cho bệnh nhân nằm đầu dốc.
Điều
trị sớm, truyền máu ngay trong hai giai đoạn đầu để phục hồi thế cân bằng huyết
động lực, phòng shock và ngăn ngừa những hậu quả do thiếu oxy gây ra. Điều trị
trong giai đoạn này là một thuận lợi không nên bỏ qua vì tác dụng điều trị
tương đối dễ dàng rất có hiệu lực, khi đã chuỵển sang giai đoạn shock nhược
điều trị khó khăn hơn. Sau khi tái lập được thế cân bằng, tình trạng còn không
chắc chắn trong một thời gian, cần tiếp tục hồi sức và theo dõi ngăn ngừa shock
thứ phát, khó hoặc không cứu chữa được.
4.3. Trụy tuần hoàn
(trụy tim mạch)
Khác
với shock, là trạng thái giảm huyết áp đột ngột, có thể dẫn tới tử vong trong
một thời gian ngắn. Nguyên nhân do chảy máu nhiều, nhanh và không cầm được gây
thiếu oxy cấp (apoploxie) các cơ quan bộ phận quan trọng. Thiếu oxy cấp có thể
gây giãn mạch do thiếu oxy nuôi dưỡng các tế bào thành mạch, các mao mạch bị
giãn, nhất là các mao mạch nội tạng làm toàn bộ khối lượng máu ứ trong đó gây
giảm huyết áp trầm trọng. Tình trạng này làm giảm khối lượng máu về tim, hệ
thống tĩnh mạch xẹp nên mặc dù khả năng tim chưa bị tổn thất, tuần hoàn máu cũng
không thực hiện được. Thiếu oxy cấp ở não nên bệnh nhân bất tỉnh ngay và các
chức năng thích ứng bảo vệ bị ức chế, các trung khu quan trọng như tuần hoàn,
hô hấp bị tổn thương đồng thời thiếu oxy cấp tuyến thượng thận… đều là những
nguyên nhân dẫn đến tử vong sớm trong mất máu cấp và nghiêm trọng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét